Trong phần 3 này, các tác giả thảo luận về việc sử dụng năng lượng trong nuôi tôm ở 5 quốc gia xuất khẩu tôm nuôi chính là Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. Mục đích sử dụng năng lượng chính tại các trang trại nuôi tôm là xây dựng và bảo trì trang trại, bơm nước và vận hành máy sục khí. Ảnh của Darryl Jory.
Sử dụng năng lượng là một vấn đề lớn vì đang có sự thiếu hụt rất lớn về nhiên liệu hóa thạch, vốn là nguồn cung cấp hầu hết năng lượng chính của thế giới. Ngoài ra, quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch dẫn đến phát thải khí carbon dioxide vào khí quyển làm tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển. Nuôi tôm, giống như hầu hết các hoạt động khác của con người, cần năng lượng và tạo ra khí thải nhà kính.
Dữ liệu sử dụng năng lượng cho sản xuất tôm thẻ chân trắng dựa trên khảo sát các trang trại ở 5 quốc gia xuất khẩu tôm nuôi chính. Số lượng trang trại được bao gồm cho mỗi quốc gia như sau: 101 trang trại ở Ecuador; 89 ở Ấn Độ; 131 ở Indonesia; 34 ở Thái Lan; và 30 tại Việt Nam.
Mục đích sử dụng chính
Mục đích của việc sử dụng năng lượng ở các trang trại nuôi tôm là xây dựng và bảo trì trang trại, bơm nước và vận hành máy sục khí. Ngoài ra còn có các hình thức sử dụng năng lượng liên quan đến quản lý cá nguồn đầu vào, đặc biệt là với thức ăn chăn nuôi và nhiên liệu.
Tất cả các trang trại đều sử dụng thức ăn chăn nuôi và tất cả các trang trại châu Á đều sử dụng máy sục khí hoặc quạt nước. Ở Ecuador, 47% trang trại sử dụng máy sục khí. Thay nước cũng thường được thực hiện tại các trang trại: 21% ở Ấn Độ; 37% ở Việt Nam; 50% ở Thái Lan; 86% ở Ecuador; 94% ở Indonesia. Các trang trại ở tất cả 5 quốc gia đã sử dụng nhiều loại chất bổ sung trong ao bao gồm phân bón, vôi, chất khử trùng, chất oxy hóa, mật rỉ đường và đường, zeolite, các khoáng chất khác nhau và chế phẩm sinh học.
Loại | Xây dựng | Vận hành |
Dầu diesel | 0,0387 GJ/L | 0,007 GJ/L (»0,0007 GJ / kWh) |
Xăng | 0,0349 GJ/L | 0,0084 GJ/L (»0,008 GJ / kWh) |
Điện | 0,0036 GJ/kWh | 0,00539 GJ/kWh |
Thức ăn cho tôm | — | 9,59 GJ/tấn |
Vôi nông nghiệp | — | 1,29 GJ/tấn |
Vôi nóng | — | 5,30 GJ/tấn |
Mật đường | — | 0,48 GJ/t |
Đường | — | 1,90 GJ/tấn |
Urê | — | 29,2 GJ / tấn |
Phân lân | — | 4,3 GJ / t |
Phân hỗn hợp | — | 14,2 GJ / t |
Khoáng hỗn hợp | — | 4,8 GJ / t |
Zeolite | — | 8,4 GJ / tấn |
Canxi hypoclorit | — | 0,30 GJ / kg |
Các chất khử trùng khác | — | 0,18 GJ / kg |
Bảng 1. Hàm lượng năng lượng của nhiên liệu, thức ăn và các chất sử dụng trong ao nuôi tôm.
Nhiên liệu được sử dụng bởi máy bơm, máy sục khí, máy kéo, xe cộ và các máy móc nông nghiệp cơ giới khác. Ở Châu Á, điện là nhiên liệu chính được sử dụng, nhưng ở Ecuador, việc sử dụng nhiên liệu diesel đã vượt quá mức sử dụng điện. Xăng là một loại nhiên liệu nhỏ ở tất cả các nước.
Tổng năng lượng sử dụng (Bảng 2) dao động từ 56,0 GJ / tấn tôm ở Ecuador đến 98,8 GJ / tấn tôm ở Thái Lan. Mức trung bình sử dụng năng lượng cho tất cả các quốc gia là 76,8 GJ / tấn.
Quốc gia | Sử dụng năng lượng (GJ / tấn tôm) |
Ecuador | 56 |
Ấn Độ | 90 |
Indonesia | 75.4 |
Thái Lan | 98.8 |
Việt Nam | 89.5 |
Bảng 2. Tổng mức sử dụng năng lượng trong sản xuất tôm nuôi ở 5 nước xuất khẩu tôm lớn.
Xây dựng và bảo trì trang trại
Việc xây dựng và bảo trì trang trại đòi hỏi rất nhiều năng lượng. Tuy nhiên, khi khấu hao trong 30 năm, việc xây dựng và bảo trì hàng năm dẫn đến việc sử dụng 11,51 GJ/ha/năm cho các trang trại ở Ecuador có ao lớn (5–10 ha). Ở Châu Á, 32,9 GJ/ha/năm năng lượng dùng để xây dựng các trang trại có ao nhỏ (0,25–0,75 ha). Khi ước tính xây dựng và bảo trì được khấu hao được chia cho sản lượng tôm nuôi hàng năm (t/ha/năm), nó sẽ trở thành một tỷ lệ sử dụng năng lượng khá nhỏ trên một tấn tôm.
Có một phần nhỏ các trang trại có ao nuôi siêu thâm canh được lót hoàn toàn bằng bạt. Các trang trại này cũng có xu hướng có các ao nhỏ hơn một chút. Năng lượng trực tiếp cho xây dựng và bảo trì được tính toán là 46,3 GJ/ha/năm và năng lượng vận hành là 11,7 GJ/ha/năm. Sản lượng tôm trong các ao này lớn hơn so với các trang trại thâm canh thông thường, và việc sử dụng năng lượng để xây dựng và bảo dưỡng trên mỗi tấn tôm cũng tương tự như trong các hoạt động thâm canh thông thường.
Sản xuất
Năng lượng sử dụng để sản xuất tôm nuôi trên mỗi kg protein hấp thu là khá cao (0,52-0,92 GJ/kg). Ngược lại, giá trị đối với các loại thịt chủ yếu có nguồn gốc trên cạn là 0,11–0,17 GJ/kg đối với protein thịt gà, 0,10–0,37 GJ/kg đối với protein thịt lợn và 0,27–0,53 GJ/kg đối với protein thịt bò. Rõ ràng, cần nỗ lực để giảm bớt lượng năng lượng sử dụng trong nuôi tôm.
Lý do chính cho việc sử dụng nhiều năng lượng cho tôm nuôi là sử dụng sục khí và quạt nước, thay nước thì cần năng lượng bơm và thức ăn có hàm lượng năng lượng cao. Thức ăn cho gà thịt, lợn và bò thịt chứa năng lượng trung bình lần lượt là 4,2, 3,8 và 3,2 GJ/t. Đây là mức thấp hơn nhiều so với mức 9,59 GJ/t của năng lượng hiện có trong thức ăn cho tôm. Sự khác biệt này liên quan đến việc sử dụng bột cá, phụ phẩm động vật và dầu cá trong thức ăn cho tôm.
Giảm sử dụng năng lượng
Các nỗ lực giảm sử dụng năng lượng cho tôm nuôi nên tập trung vào việc giảm tỷ lệ thay nước, vận hành các thiết bị sục khí hiệu quả hơn. Không có bằng chứng khoa học nào cho thấy cần thay nước ngoài việc tránh nhiễm mặn quá mức ở một số khu vực khô cằn.
Loại quạt nước dùng phổ biến ở các nước Châu Á có hiệu quả kém. Người nông dân có xu hướng sử dụng nhiều mã lực cho máy sục khí hơn mức cần thiết. Nhiều người nuôi không điều chỉnh số lượng máy sục khí , quạt phù hợp với lượng tôm nuôi trong ao. Hơn nữa, vào ban ngày, có thể không sử dụng quạt cho đến tối.
Hàm lượng năng lượng trong thức ăn cho tôm có thể được giảm bớt bằng cách lựa chọn nguyên liệu. Tuy nhiên, thức ăn nuôi tôm phải có hàm lượng protein thô khá cao so với thức ăn chăn nuôi trên cạn. Do đó, không thể sản xuất thức ăn tôm có hàm lượng năng lượng thấp như trong thức ăn chăn nuôi khác.
Quan điểm
Mặc dù tôm, giống như thịt bò, là một mặt hàng sử dụng nhiều năng lượng, nhưng việc sử dụng năng lượng cho tôm có thể giảm đi rất nhiều và ít nhất là bằng mức đối với thịt bò. Điều này sẽ tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải carbon dioxide cho tôm nuôi. Hơn nữa, nó sẽ làm giảm chi phí sản xuất.
Tiến sĩ Claude E. Boyd, Tiến sĩ Robert P. Davis, Tiến sĩ Aaron McNevin,